Chả lụa - món ngon với nhiều cách thưởng thức
Chả lụa có thể được coi là xúc xích hoặc là thịt jambon của Việt Nam và thỉnh thoảng còn được gọi là thịt cuốn hay thịt gối kiểu Việt. Nhiều tên gọi là vậy nhưng Chả lụa chỉ có hai thành phần cơ bản là thịt lợn giã nhuyễn và nước mắm ngon, gói trong lá chuối rồi hấp. Chả lụa nổi tiếng cả nước là một món ngon, bình dân và đặc biệt là khi ăn vào còn thoang thoảng mùi lá chuối sau khi hấp.
Chả lụa là một món ngon đặc trưng của ẩm thực truyền thống Việt Nam. Ba miền Bắc-Trung-Nam của Việt Nam, mỗi vùng đều có một nền ẩm thực riêng biệt với hương vị đặc trưng khác nhau nhưng đều có chung một món vào ngày Tết cổ truyền- Chả lụa hay Giò lụa là một món nhất định phải có trên mâm cỗ ngày Tết. Món ăn này thường được ăn kèm với Bánh chưng, Bánh tét. Vào những ngày còn lại trong năm thì Chả lụa lại có thể dọn kèm với bất cứ món gì như là bánh mì, bánh tét, bánh cuốn, xôi, các món mì sợi như bún mọc, bún thang..vv.. hay đơn giản là ăn kèm trong bữa cơm hàng ngày. Chả lụa quả thật là một món đơn giản nhưng lại rất đặc biệt. Có thể dùng kèm với rất nhiều món và dễ dàng hợp khẩu vị của đại đa số người.
Chả lụa được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản nhưng để chọn được loại ngon thì cũng tốn không ít công phu
-Thịt heo: phải tươi. Tốt nhất là thịt nạc lưng và phải được chọn kỹ từ những phần thịt đã qua chế biến, lúc còn nóng.
-Nước mắm: phải thật ngon, thường dùng là nước mắm nhĩ
-Lá chuối: Phải chọn những lá xanh và tươi nhất. Chả lụa ngon hay dở là tùy thuộc vào sự phối hợp giữa lá chuối thịt tươi. Nhiều chuyên gia ẩm thực đã thử làm chả lụa bằng ống thép thay vì là lá chuối. Món ăn hoàn thành tuy không hẳn là thất bại nhưng không có được mùi hương đặc trưng và có vẻ như là không gì có thể thay thế được hương thơm đặc biệt của lá chuối.
-Những gia vị khác: Ở một vài địa phương thì người ta còn ướp thịt với một chút đường và tiêu để tăng hương vị đặc trưng của vùng.
Ngày xưa, thịt lúc còn ấm sẽ được cắt hột lựu và bỏ vào trong một cái cối đá và được gãi bằng chày gỗ. Cách giã như thế nào có ảnh hưởng rất lớn đến chả. Người giã thịt cũng rất tốn sức, phải sử dụng cả hai tay để chày giã thật đều tay lên từng thớ thịt. Lúc làm chả lụa thì thịt tuyệt dối không thể xay hay là thái nhỏ vì nó rất dễ khô, xơ và hỗn hợp sẽ không được mịn. Thịt phải được giã tới khi nhuyễn, dẻo. Ngày nay thì việc giã trở nên dễ dàng hơn với máy móc đặc dụng nhưng cách truyền thống vẫn được chuộng hơn. Vài thìa nước mắm được thêm vào hỗn hợp để ướp gia vị. Khi nhấc chày lên mà không còn thấy thịt dính ở đầu chày thì hỗn hợp đã mịn và hoàn chỉnh. Lúc này thì hỗn hợp này gọi là giò sống và là nguyên liệu cho rất nhiều món ăn
Thịt sau đó được đặt lên lá chuối và gói chặt thành một khối hình trụ tròn để hỗn hợp được phân đều. Chả lụa được gói bằng nhiều lớp lá chuối thật chặt để tránh nước chảy ra khi luộc. Nếu không thì phần thịt sẽ bị hỏng. Luộc cũng là một công đoạn quan trọng quyết định chất lượng chả. Chả sống sẽ được bỏ ngập vào nước sôi theo chiều dọc và nhiệt độ nước phải luôn giữ đúng một mức trong lúc luộc. Một ký chả lụa thường phải mất khoảng một tiếng để nấu xong. Nếu được luộc đúng cách thì Chả lụa có thể được bảo quản ở nhiệt độ phòng suốt một tuần. Tuy nhiên đến lúc mở ra thì phải được cất trong tủ lạnh. Khi dọn ra thì chả ngon sẽ có màu trắng hồng với vài lỗ nhỏ trên bề mặt.
Chả lụa trông có vẻ là một món ăn đơn giản nhưng lại có nét độc đáo riêng. Từ việc lựa nguyên liệu để làm hỗn hợp giã nhuyễn rồi đến cả lúc luộc, mọi công đoạn đều cần thực hiện hết sức tỉ mỉ thì chả lụa mới được ngon. Chỉ có hai nguyên liệu cơ bản là thịt lợn và nước mắm nhưng chả lụa có thể dùng riêng hay ăn kèm với bất kỳ món ăn nào vào bất cứ lúc nào. Nhiều tín đồ ẩm thực mê chả lụa vì tính đa dạng của nó. Ở Việt Nam, có rất nhiều lò chả nổi tiếng. Một trong những làng làm chả lụa nổi tiếng nhất miền Bắc là Ước Lễ, Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Tại những ngôi làng này, cách chế biền truyền thống được truyền từ đời này sang đời khác với mục đích tôn trọng và gìn giữ văn hóa cũng như nghệ thuật ẩm thực truyền thống Việt Nam.